Quảng Ninh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc Vùng duyên hải Bắc Bộ. Đây là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam, có vịnh Hạ Long là di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới. Quảng Ninh cũng là 1 trong 8 tỉnh được Chính phủ Việt Nam quy hoạch thành thành phố trực thuộc trung ương.
Địa Lý Quảng Ninh
Quảng Ninh được ví như một "Việt Nam thu nhỏ", có đa dạng các loại địa hình từ đồng bằng, vùng núi, ven biển,... Là tỉnh miền núi, trung du nằm ở vùng duyên hải, với hơn 80% đất đai là đồi núi. Trong đó, có hơn 2000 hòn đảo núi đá vôi nổi trên mặt biển, phần lớn chưa được đặt tên. Địa hình của tỉnh đa dạng có thể chia thành 3 vùng gồm có Vùng núi, Vùng trung du và đồng bằng ven biển, và Vùng biển và hải đảo.
Quảng Ninh có quỹ đất dồi dào (611.081,3 ha). Trong đó: 10% là đất nông nghiệp, đất có rừng chiếm 38%, 43,8% là diện tích chưa sử dụng tập trung ở vùng miền núi và ven biển, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở. Với ưu thế của tỉnh miền núi, ven biển, khí hậu ẩm rất thuận lợi cho quá trình sinh trưởng phát triển các loài cây lấy gỗ, lấy nhựa như thông nhựa, thông mã vĩ, keo, bạch đàn... Đặc biệt, với đặc thù điều kiện lập địa trên diện tích đất đồi núi của tỉnh rất thích hợp với các loài cây gỗ quý, đặc sản, cây dược liệu, các loài cây mang tính bản địa. Quảng Ninh có nhiều loại đất. Chiếm diện tích lớn nhất là đất feralit vàng đỏ và đất feralit đồng cỏ thứ sinh phát triển ở địa hình đồi núi thấp.
Tổng diện tích rừng và đất rừng là 243.833,2 ha, chiếm 38% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 80%, còn lại là rừng trồng, rừng đặc sản khoảng 100.000 ha, đất thành rừng khoảng 230.000 ha, là điều kiện để phát triển thành các vùng nông nghiệp, vùng cây đặc sản, cây ăn quả có quy mô lớn.
Quảng Ninh có thế mạnh và tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển, có chiều dài đường ven biển lớn thứ hai 250 km với 2.077 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo của cả nước, trong đó trên 1.000 đảo đã có tên; có ngư trường rộng lớn trên 6.100 km², là nơi sinh sống của vô vàn các loài sinh vật biển quý hiếm. Hầu hết các bãi cá chính có sản lượng cao, ổn định, đều phân bố gần bờ và quanh các đảo, rất thuận tiện cho việc khai thác. Ven biển Quảng Ninh có nhiều khu vực nước sâu, kín gió là lợi thế đặc biệt quan trọng thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển hệ thống cảng biển đặc biệt là cảng nước sâu tiếp nhận được tàu có trọng tải lớn và cảng thủy nội địa, nhất là ở thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả, huyện Tiên Yên, thành phố Móng Cái và huyện Hải Hà đáp ứng cho việc giao lưu hàng hóa với các tỉnh trong vùng.
Biểu đồ nhiệt độ ở Quảng Ninh
Biểu đồ lượng mưa Quảng Ninh
Quảng Ninh có khí hậu cận nhiệt đới ẩm đặc trưng của miền Bắc Việt Nam, với một mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều và một mùa đông lạnh khô ít mưa. Do vị trí địa lý ven biển và địa hình đa dạng, tỉnh chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc và ít chịu tác động từ gió mùa Tây Nam. Khí hậu Quảng Ninh được phân thành hai mùa rõ rệt: mùa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm trung bình năm đạt 82–85%.
Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 21–23°C, chênh lệch giữa các vùng núi và ven biển rõ rệt. Mùa đông có hiện tượng sương muối và đôi khi có mưa tuyết tại các vùng núi như Bình Liêu, Ba Chẽ.
Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.995mm, tập trung chủ yếu vào mùa hè (chiếm 85% lượng mưa cả năm). Mưa phân bố không đều, nhiều nhất ở vùng Móng Cái, Tiên Yên, Hải Hà (khoảng 2.400mm) và ít nhất tại Ba Chẽ (khoảng 1.400mm).
Quảng Ninh chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa gió mùa hạ (tháng 5–10) từ hướng đông nam, thường mang theo mưa lớn và bão; gió mùa đông (tháng 11–4) từ hướng đông bắc, gây lạnh khô. Mỗi năm, trung bình có khoảng 5–6 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực.
=> Nhìn chung, khí hậu Quảng Ninh mát mẻ, ấm áp, thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp và các hoạt động kinh tế biển.
Sông Ba chẽ
Sông Bạch Đằng
Quảng Ninh có khoảng 30 sông, suối dài trên 10 km, trong đó nổi bật là sông Bạch Đằng, sông Ka Long, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ. Các sông thường ngắn, nhỏ, độ dốc lớn, chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều, hình thái phổ biến là dạng cánh quạt, trừ một số sông lớn có dạng lông chim. Chế độ dòng chảy phân thành hai mùa rõ rệt: mùa lũ (tháng 5–10) và mùa cạn (tháng 11–4), với lưu lượng mùa mưa cao gấp khoảng 1.000 lần mùa khô. Phù sa của các sông ít do phần lớn chảy qua vùng địa chất cứng.
Vùng cửa sông có hiện tượng nước mặn xâm nhập sâu, đất dễ bị xói lở và bồi lấp nhanh, nhất là tại các khu vực khai khoáng như Vàng Danh, Mông Dương.
Về biển, Quảng Ninh giáp vịnh Bắc Bộ với đặc trưng sóng gió nhỏ do được hệ thống đảo che chắn. Chế độ thủy triều nhật triều, biên độ 3–4 m, có hiện tượng "con nước" đặc trưng. Vùng biển này có dòng hải lưu lạnh, mùa đông nhiệt độ có thể xuống tới 13°C.
Tổng lượng nước mặt ước tính 8.777 tỷ m³/năm, tập trung 75–80% vào mùa mưa. Nguồn nước ngầm dồi dào, với trữ lượng lớn tại các khu vực như Cẩm Phả (6.107 m³/ngày) và Hạ Long (21.290 m³/ngày). Quảng Ninh cũng có từ 2.500–3.000 ha mặt nước ao, hồ, đầm thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản.
Quảng Ninh còn được biết đến với trữ lượng khoáng sản dồi dào như: Than đá, đá vôi, đất sét, cao lanh và nước khoáng.
Có trữ lượng khoảng 3,6 tỷ tấn (43,8%), hầu hết thuộc dòng an-tra-xít, tỷ lệ các-bon ổn định 80 – 90%; phần lớn tập trung tại 3 khu vực: Hạ Long, Cẩm Phả và Uông Bí – Đông Triều; mỗi năm cho phép khai thác khoảng 30 – 40 triệu tấn.
Trữ lượng tương đối lớn, phân bố rộng khắp các địa phương trong tỉnh như: Mỏ đá vôi ở Hạ Long, Cẩm Phả; Các mỏ cao lanh ở các huyện miền núi Hải Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên, thành phố Móng Cái; các mỏ đất sét phân bố tập trung ở Đông Triều và Hạ Long là nguồn nguyên liệu quan trọng để sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Có nhiều điểm nước khoáng uống được ở Quang Hanh (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên), Đồng Long (Bình Liêu). Ngoài ra, còn có nguồn nước khoáng không uống được tập trung ở Cẩm Phả có nồng độ khoáng khá cao, nhiệt độ trên 35 °C, có thể dùng chữa bệnh.
Di tích thời tiền sử
Thời tiền sử
Khoảng 18.000 năm trước, trong thời kỳ cuối của kỷ băng hà, khu vực Quảng Ninh ngày nay vốn là một đồng bằng rộng lớn thuộc tam giác châu Bắc Bộ. Trên vùng đất này, cư dân tiền sử đã sinh sống trong các hang động đá vôi, hình thành nên nền văn hóa Soi Nhụ – nền văn hóa độc lập nhưng song song với văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn. Văn hóa Soi Nhụ đã đặt nền móng cho các giai đoạn phát triển tiếp theo như văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long. Các nghiên cứu khảo cổ học, đặc biệt từ di chỉ Đầu Rằm, cho thấy sự phát triển liên tục từ tiền sử sang sơ sử ở Quảng Ninh, không bị đứt đoạn. Vào thời Hùng Vương, Quảng Ninh đã là một bộ phận của quốc gia Văn Lang cổ đại.
Thời sơ sử và phong kiến
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào thời Hùng Vương, Quảng Ninh thuộc các bộ Ninh Hải và Lục Hải, trung tâm của khu vực này chính là tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Trong suốt thời kỳ phong kiến, vùng đất này nhiều lần thay đổi tên gọi: từ Lục Châu (thời kỳ đầu tự chủ), Hải Đông (nhà Lý, Trần), An Bang (cuối nhà Trần, đầu nhà Lê), An Quảng (thời Lê trung hưng) và Quảng Yên (thời Nguyễn).
Quảng Ninh cũng gắn liền với những địa danh lịch sử nổi bật như:
Sông Bạch Đằng – nơi diễn ra ba trận thủy chiến lừng danh chống quân xâm lược.
Thương cảng Vân Đồn – trung tâm giao thương sầm uất thời phong kiến.
Núi Yên Tử – cái nôi của Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập.
Quần thể lăng tẩm nhà Trần tại Đông Triều – nơi lưu giữ dấu ấn một triều đại huy hoàng.
Thời Pháp thuộc
Cuối thế kỷ XIX, Quảng Ninh chịu ách đô hộ của thực dân Pháp. Sau Công ước Pháp – Thanh 1887, một phần lãnh thổ phía Bắc của Quảng Ninh bị cắt nhượng cho Trung Quốc (vùng Đông Hưng, Bạch Long Vĩ).
Pháp nhanh chóng khai thác tài nguyên, đặc biệt là mỏ than, biến Quảng Ninh thành trung tâm khai thác thuộc địa điển hình. Công ty than Bắc Kỳ (S.F.C.T) độc quyền bóc lột tài nguyên và nhân công. Sự phân hóa xã hội sâu sắc đã làm hình thành và phát triển mạnh mẽ giai cấp công nhân mỏ. Đây cũng là một trong những cái nôi sớm nhất của phong trào công nhân và cách mạng vô sản Việt Nam, nổi bật với cuộc Tổng bãi công vùng mỏ ngày 12/11/1936 – sự kiện được xem là dấu mốc vàng trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn Cách mạng tháng Tám và kháng chiến
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Quảng Ninh bước vào thời kỳ mới. Tuy nhiên, do vị trí địa lý đặc thù – là vùng biên giới, rừng núi và có nhiều tài nguyên – nên việc giành chính quyền tại đây gặp nhiều khó khăn, với sự chống trả ngoan cố của quân Nhật, Tưởng Giới Thạch và sau đó là thực dân Pháp.
Đến năm 1947, để thống nhất chỉ đạo kháng chiến, liên tỉnh Quảng Hồng được thành lập, bao gồm tỉnh Quảng Yên, đặc khu Hòn Gai và một số huyện thuộc Hải Dương, Bắc Giang.
Sau năm 1945
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Quảng Ninh (khi đó gồm các tỉnh Quảng Yên và Hải Ninh) giành được chính quyền nhân dân. Tuy nhiên, việc củng cố chính quyền gặp nhiều khó khăn do sự chống phá của tàn quân Pháp, quân Tưởng và các nhóm phản động. Phải đến năm 1947, liên tỉnh Quảng Hồng được thành lập để thống nhất lãnh đạo kháng chiến, bao gồm Quảng Yên, đặc khu Hòn Gai và các huyện của Hải Dương, Bắc Giang.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Quảng Ninh trở thành vùng chiến lược quan trọng, vừa tổ chức chiến đấu vừa bảo vệ các khu mỏ và tuyến đường biển. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Hiệp định Genève quy định Việt Nam tạm thời chia cắt tại vĩ tuyến 17, Quảng Ninh hoàn toàn thuộc miền Bắc, bắt đầu bước vào công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển xã hội trong hòa bình.
Thời kỳ xây dựng CNXH và chống chiến tranh phá hoại (1954–1975)
Trong những năm 1955–1975, Quảng Ninh không chỉ tập trung khôi phục, mở rộng sản xuất than - nguồn nhiên liệu chiến lược cho cả nước - mà còn vừa sản xuất vừa chiến đấu chống lại các cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Các khu mỏ như Hòn Gai, Cẩm Phả trở thành "thành trì bất khuất" với phong trào thi đua "Sống bám mỏ, bám lò, chết kiên cường, anh dũng". Công nhân mỏ Quảng Ninh tiếp tục giữ vai trò tiên phong trong các phong trào thi đua yêu nước.
Quảng Ninh hiện tại
Thời kỳ đổi mới và phát triển (1986 đến nay)
Sau năm 1986, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, Quảng Ninh chuyển mình mạnh mẽ. Tỉnh tập trung tái cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế biển, khai thác du lịch, đặc biệt là phát huy giá trị di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. Các khu công nghiệp, khu kinh tế như Khu kinh tế Vân Đồn, Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái ra đời, thúc đẩy mạnh mẽ thương mại, dịch vụ và công nghiệp chế biến.
Đến nay, Quảng Ninh trở thành một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hệ thống hạ tầng giao thông hiện đại bậc nhất cả nước, đồng thời là một trung tâm du lịch quốc tế với các sản phẩm du lịch biển đảo, tâm linh, nghỉ dưỡng cao cấp.